Trang

Thứ Ba, 18 tháng 10, 2011

Sang thu của Hữu Thỉnh ( Chu Văn Sơn)



img_1000001726_0.jpg
 Mùa thu quả nhiên là mùa nhạy cảm bậc nhất trong năm. Con người cùng Tạo vật thảy đều nhạy cảm. Tuy nhiên, cái thời điểm mà sự nhạy cảm của hồn tạo vật luôn thách thức với sự nhạy cảm của hồn người vẫn là thời khắc giao mùa - chớm thu. Các kênh cảm giác và cả tâm cảm nữa của mỗi hồn thơ dường như đều được huy động tối đa để nắm bắt những làn sóng, những tín hiệu mơ hồ nhất từ những giao chuyển âm thầm trong vạn vật.
Chả thế mà, bao đời nay luôn có sự đua ganh giữa hồn thơ với hồn tạo vật. Chỉ cần điểm sơ qua những tín hiệu từng được hồn thơ từ cổ chí kim nắm bắt trong những thi ảnh không thôi, cũng khó đủ giấy mực rồi. Gọn nhẹ hơn, chỉ điểm qua những thi tứ nổi bật dành cho nhịp chuyển mùa thôi, chắc cũng  không xuể. Cho nên, tôi sẽ không nấn ná làm cái việc rút tỉa những thi ảnh và thi tứ tiêu biểu về thời điểm nhạy cảm ấy của thơ ca các thời, nghĩa là không tái hiện lại một truyền thống, một tiền đề nữa. Mà cùng Hữu Thỉnh, bước ngay…  Sang thu

Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về

Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu

Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi

Thu, 1977
 
Tôi mừng cho Hữu Thỉnh và bài thơ, nó vừa giành được một chỗ xứng đáng trong chương trình Văn và Tiếng Việt của nhà trường. Kể từ nay, hương ổi của thi phẩm sẽ phả vào tâm hồn của nhiều thế hệ học trò, sẽ được những tâm hồn ấy mang tới bao nẻo thu, đến cả những miền chưa từng có mùa thu nữa.

1. Từ cấu trúc …

Trước tiên, thử đi vào cấu trúc của thi phẩm.
Hình thái tổ chức của Sang thu đâu dễ nhận diện. Về bố cục, ai chẳng thấy chính tác giả đã tự chia bài thơ thành ba khổ khúc chiết. Nhưng về ý tứ ? Xem chừng ý khổ này cứ “dính” vào khổ kia, chả chịu rành mạch gì cả. Thì quanh đi quẩn lại vẫn là thế : hương ổi, gió se, sương chùng chình, sông dềnh dàng, chim vội vã, nắng vẫn còn, mưa đã vơi, sấm bớt bất ngờ, hàng cây đứng tuổi… chẳng dáng nét thu về, thì hình sắc thu sang, đấy thay đổi tinh vi, đây đổi thay tinh tế. Ý đâu có khác gì nhau. Đến nỗi, ngay cả “Sách giáo viên” hướng dẫn người dạy khai thác và soạn giảng chừng như cũng “ bí” trong việc phân định . Hay việc chia thành ba khổ thế chỉ hoàn toàn do cảm tính lúc viết của thi sĩ, còn ý thơ thì vốn thiếu rành mạch, vô tổ chức ? Không hẳn.
Đọc kĩ hơn thì thấy rằng: cùng viết về thiên nhiên lúc giao mùa, nhưng mỗi khổ thơ vẫn nghiêng về một ý. Về cảnh vật, khổ một nghiêng về những tín hiệu mách bảo sự hiện diện đây đó của mùa thu, từ góc nhìn vườn ngõ : Bỗng nhận ra hương ổi /Phả vào trong gió se /Sương chùng chình qua ngõ /Hình như thu đã về. Khổ hai lại nghiêng về những cảnh sắc trời mây sông nước đang chuyển mình sang thu, với tầm nhìn rộng xa vào bầu trời mặt đất : Sông được lúc dềnh dàng / Chim bắt đầu vội vã/Có đám mây mùa hạ/ Vắt nửa mình sang thu. Trong khi đó, khổ ba lại nghiêng về những biến đổi bên trong các hiện tượng thiên nhiên và tạo vật : Vẫn còn bao nhiêu nắng/Đã vơi dần cơn mưa/Sấm cũng bớt bất ngờ/Trên hàng cây đứng tuổi. Như vậy, ba khổ thơ đã được liên kết thành một chỉnh thể nhuần nhị nhờ vào một trật tự khá tự nhiên : từ gần đến xa, từ thấp đến cao, từ hẹp đến rộng, từ ngoài vào trong, với các lớp cảnh càng ngày càng đi vào chiều sâu… Một trật tự hợp lí tự nhiên bao giờ cũng là điều sinh tử để một sản phẩm nghệ thuật hiện ra như một sinh thể !
Nhưng, cả người khờ khạo nhất cũng phải thấy rằng : thơ thiên nhiên không đơn thuần chỉ có cảnh. Cùng với cảnh, bao giờ cũng là tình, dù đậm hay nhạt, dù kín hay lộ. Tình trong cảnh, cảnh trong tình. Cho nên, đồng hành với mạch cảnh sắc trên đây, là tâm tư của thi sĩ. Cụ thể là mạch cảm nghĩ trước mùa thu. Sự đan xen các mạch này là một khía cạnh phức tạp không thể thiếu của cấu trúc. Sau một thoáng ngỡ ngàng ở khổ một (… Hình như thu đã về), là đến niềm say sưa ở khổ hai (…Có đám mây mùa hạ/ Vắt nửa mình sang thu), và kết lại ở khổ ba với vẻ trầm ngâm(… Sấm cũng bớt bất ngờ / trên hàng cây đứng tuổi). Không chỉ có thế. Tương ứng với những cung bậc của mạch cảm, là các cấp độ của mạch nghĩ. Khổ đầu : bất giác, khổ hai : tri giác, khổ ba : suy ngẫm. Mạch cảm và mạch nghĩ bao giờ cũng song hành và chuyển hoá sang nhau trong cùng một dòng tâm tư . Chúng đan bện với nhau khiến cấu trúc nghệ thuật càng tinh vi phức tạp. Rõ ràng, từ khổ một đến khổ ba, thi phẩm là sự đồng hành và hoá thân vào nhau của ba mạch nội dung vừa rõ nét vừa sống động. Có thể nôm na hoá qua sơ đồ sau :
 
bb.png
 

 
 Thế đấy, cấu trúc của thi phẩm này, bề ngoài, có vẻ “dính”, nhưng bề sâu, đâu phải là thiếu rành mạch. Trái lại là đằng khác ấy chứ ! Rõ ràng, qua phân tích trên đây cũng đủ thấy rằng : một tiếng thơ dù bình dị hồn nhiên thế nào đi nữa, vẫn là một kiến trúc ngôn từ với một cấu trúc thật tinh vi.

  

           
2. … đến điệu tâm hồn

Cảm nhận tạo vật lúc sang thu, đa phần các thi sĩ nghiêng về vẻ biến suy một chiều của cảnh. Vì thế, thần thái của cảnh thu thường hiện lên qua vẻ tiêu sơ. Ví như bài Thu cảm, tiếng thơ khá tinh tế của một thi sĩ đương thời : Mướp tàn sen cũng đi tu / Lá tre đã thả một mùa heo may / Con sông không ốm mà gầy / Mắt em chưa tối đã đầy hoàng hôn. Cảm nhận của Hữu Thỉnh khác, không đơn tuyến. Tôi cho rằng, một trong những nét đặc sắc của bài Sang thu là có hai hệ thống tín hiệu báo mùa có vẻ phản trái nhau, song cả hai đều thuộc về thần thái của mùa thu. Tạm đặt tên là nhịp mạnh và nhịp nhẹ. Nhịp mạnh bao gồm những động thái, sắc thái dương tính (mạnh, nhanh, nhiều…) : hương ổi phả - chim vội vã - vẫn còn bao nhiêu nắng… Nhịp nhẹ thì nghiêng về âm tính (êm, chậm, ít…) : sương chùng chình, sông dềnh dàng, mưa vơi dần… Lúc bất giác nhận ra hương ổi “phả” vào trong gió se, thì cũng là lúc bắt gặp sương “chùng chình” qua ngõ. Chính lúc sông “dềnh dàng” là lúc chim “vội vã”. Khi nắng “còn” cũng là khi mưa “vơi”. Đừng nghĩ thi sĩ cố ý đặt bày hai mạch tương phản nhằm chơi trò lạ hoá. Nó chính là hiện tượng trái chiều mà cùng hướng ta vẫn thường thấy trong mỗi cuộc đổi thay. Chẳng phải thế sao ? Chẳng phải bao mạch sống đang cần mẫn chuyển lưu trong lòng tạo vật làm nên cõi sống trường cửu này vốn vẫn tương sinh tương khắc như vậy sao ? Và chẳng phải những vận động trái chiều mà cùng hướng vẫn thường đem đến cho sự sống thế quân bình ngay trong lòng mỗi nhịp biến thiên hay sao ? Cho nên, thật thú vị mà cũng thật hiển nhiên là hai nhịp mạnh - nhẹ với hệ thống hưng - suy, tiêu - trưởng kia lại đan dệt trong nhau khá nhuần nhuyễn tạo nên cái bản giao hưởng gợi cảm của đất trời thu. Có thể xem đó là nét phức điệu trong cảm nhận ngoại giới của hồn thơ Hữu Thỉnh. Toàn cảnh thu trong bước chuyển mùa, nhờ lối cảm ấy, đã hiện ra không chỉ có biến thiên, mà đây đó còn cả thế quân bình. Luôn thấy được thế quân bình ngay giữa những biến thiên thì ít bất ngờ chao đảo. Trong thiên nhiên đã vậy. Trong cuộc đời cũng thế. Và, tôi ngờ rằng cảm quan quân bình về đời sống đã ngấm ngầm xui thi sĩ tìm đến cái kết điềm tĩnh trước ba động, giấu cương sau nhu này :
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi ?

Nói đến câu kết kia, không thể không thêm vài lời về cách lập tứ dẫn tới kết. Nó rõ nhất ở khổ ba : Vẫn còn bao nhiêu nắng /Đã vơi dần cơn mưa /Sấm cũng bớt bất ngờ /Trên hàng cây đứng tuổi. Để ý một chút, sẽ thấy rằng đến đây, tâm thế thi sĩ không còn ngỡ ngàng bất giác như khổ một, say sưa tri giác như khổ hai, mà lòng đã nặng hơn, đã ra chiều trầm ngâm với suy ngẫm rồi. Lớp từ mang sắc thái đong đếm ở đây mách với ta điều đó. Hệ thống các từ còn (-hết), vơi (-đầy), bớt (-thêm) bảo rằng thi sĩ đang suy xét, đúc kết, chiêm nghiệm. Chiêm nghiệm điều gì ? Về một lẽ đời trong hai chiều biến đổi trái nhau. Ba câu trên : nắng “vẫn còn”, tức là đã giảm ; mưa “vơi dần” rõ là giảm ; sấm “bớt bất ngờ” càng giảm. Cả ba nghiêng về chiều giảm. Nhưng, khi câu ba nối vào câu kết, thì chiều giảm đột ngột thành chiều tăng, một chiều tăng kín đáo : Sấm cũng bớt bất ngờ /Trên hàng cây đứng tuổi. Ấy là sự từng trải tăng lên, là cây đã trưởng thành. Nhờ lối viết nén, mấy chữ “bớt bất ngờ” như một nút buộc, câu thơ bỗng có “cú pháp dính”, lời thơ súc tích hẳn nhờ các làn nghĩa giao nhập ràng néo nhau : sấm bớt gây bất ngờ (sấm đã e cây), hay cây bớt bị bất ngờ (cây thôi e sấm)? Có lẽ là cả hai, nhưng xem chừng, cái vế sau mới là chốt hạ.  Nhờ ngữ pháp ấy mà cái ý cương kia liền được giấu kín nhẹm, thậm chí được nhu hoá. Có thể nói, đây là lối kết theo kiểu “đảo phách”. Một cú đảo phách ngoạn mục. Bởi đảo mà cứ như không.
                                                
                                                  *
Sang thu là bài thơ tinh tế. Điều này khỏi bàn thêm. Chẳng thế mà các chi tiết gợi cảm của thi phẩm đã cuốn hút nhiều người yêu thơ. Nào những hương ổi phả vào trong gió se, nào sương chùng chình qua ngõ, rồi thì sông được lúc dềnh dàng… xem ra, thi ảnh nào cũng tài hoa. Mà ấn tượng nhất hẳn phải là cảnh tượng Có đám mây mùa hạ/Vắt nửa mình sang thu. Làm xác định cái không xác định, khiến cái vô hình thành hữu hình, làm định dạng cái vốn mơ hồ, là lối viết đâu có gì lạ về thi pháp. Thế mà thi ảnh lại mới, hình sắc lại gợi. Đám mây thực thế mà ảo thế ! Cái cách “vắt nửa mình” kia sao mà thi vị ! Có thật chăng một đám mây vốn của mùa hè đang mải mê lấn sân sang mùa thu ? Có mà không có, thật mà không thật. Cứ y như giữa mùa thu và mùa hè vẫn có một lằn ranh làm bằng sợi dây vô hình giăng ra giữa thinh không, khiến đám mây yêu kiều và đỏng đảnh kia có thể vắt nửa mình qua đó mà khoe sắc phô duyên vậy !

Mà đâu chỉ trong quan sát, ở thi phẩm này, Hữu Thỉnh còn tỏ ra tinh hơn nữa trong sự đồng điệu với nhịp chuyển mùa. Những hiện tượng riêng lẻ thì gồm cả hai hệ thống tín hiệu trái chiều, có chậm có nhanh. Nhưng cái nhịp luân chuyển chung chi phối vạn vật thì bao giờ cũng khẩn trương và mau lẹ. Nhịp luân chuyển ấy dường như đã nhập vào mấy chữ tưởng rất không đâu mà lại thần tình này: Sông được lúc dềnh dàng/Chim bắt đầu vội vã ; Vẫn còn bao nhiêu nắng/Đã vơi dần cơn mưa”. Mấy chữ ấy đi với nhau thành cặp, hô ứng và tiếp ứng nhau làm hiển thị cái nhịp luân chuyển trong tạo vật vốn mải mê mà vô hình.

Người đọc cũng dễ say với những nét tài hoa trong việc sử dụng nhuần nhuyễn yếu tố cổ điển của thi sĩ. Đọc Hữu Thỉnh, có một chất rất dễ nhận : dân gian. Còn có một chất khác, luôn cặp kè, mà xem ra lại khó thấy : Đường thi. Sao lại cặp kè ? Thì một trong những chiêu rất Hữu Thỉnh chẳng phải là chế tác thi liệu dân gian bằng thi pháp Đường ư ? Cố nhiên, anh không chỉ có chiêu này. Ở Sang Thu, cái súc tích Đường thi kết hợp với chất hồn nhiên thơ trẻ cứ loáng thoáng đâu đó trong cách nhìn tạo vật, trong cách kiệm lời, mà hiển lộ nhất là ở phép đối ngẫu được dùng khá nhuyễn : Sông được lúc dềnh dàng-Chim bắt đầu vội vã ; Vẫn còn bao nhiêu nắng-Đã vơi dần cơn mưa. Có lẽ khi đọc các cặp ấy, tâm trí ta bị trôi theo lời thơ bình đạm, ít ai để ý đến nghệ thuật tổ chức, chỉ lúc chợt ngoái lại, thì mới vỡ lẽ: ồ, ra là phép đối ! Thế là nhuyễn, là tinh chứ sao !

Tuy nhiên, đó vẫn là những tinh tế tiểu tiết và dễ viết.

Đôi khi quá chú mục vào cái tinh tế trong tiểu tiết có thể quên sự tinh vi trong đại cục. Tôi muốn nói đến điều khác : ý tưởng bao trùm. Nó mới là nét tinh vi thuộc về đại cục. Ý tưởng Sang thu được gói kín vào thi tứ. Một thi tứ đa tầng khiến hình tượng thơ thành đa nghĩa. Nhờ đó, thi phẩm nhỏ đã mang thi tứ lớn.
Sang thu đa nghĩa, vì ít nhất, có sự chất chồng và giao thoa của ba lớp nghĩa : trời đất sang thu, đời sống sang thu và đời người sang thu. Lớp nghĩa thứ nhất dễ thấy. Vì nó ở bề nổi của văn bản thơ. Nó khiến bài thơ như một bức tranh thiên nhiên. Không. Có lẽ như những thước phim về cảnh vật thiên nhiên thì phải hơn. Tranh thì tĩnh, phim mới động. Sự mẫn cảm của tâm hồn thi sĩ đã được dịp phô diễn qua những thi ảnh giàu mỹ cảm trong việc nắm bắt bao vận động, chuyển động, biến động âm thầm và sâu kín của thiên nhiên. Nhưng, nếu chỉ thế thôi, Sang thu cũng mới là thơ tạo vật. Hữu Thỉnh chưa đem đến cái gì mới hơn so với các tiếng thơ thuộc thi đề thu của những người đi trước. Đồng thời, cũng chưa phổ được vào đó hơi thở của thời mình, tinh thần của thế hệ mình.
Hai lớp nghĩa sau mới thật là thứ hương ổi riêng mà Hữu Thỉnh phả vào trong thi đề này. Tất nhiên, những hàm ý kín đáo kia toát lên trước hết từ nghĩa bóng đây đó của các thi ảnh. Ai cũng có thể thấy những ẩn ý nào đó thấp thoáng sau lối viết ẩn dụ trong các thi ảnh rải rác ngay từ  đầu sương chùng chình, sông dềnh dàng, chim vội vã v.v… Nhưng nếu chỉ có thế thì ý nghĩa của chúng còn lờ mờ, chưa xa gì hơn một lối nói sinh động về sự vật, chưa đủ tạo hẳn ra một lớp nghĩa khác cho văn bản. Lớp nghĩa kia chỉ thực sự bật hầm khi hình ảnh cuối cùng đột hiện : Sấm cũng bớt bất ngờ / Trên hàng cây đứng tuổi. Chữ “đứng tuổi” bật sáng, phát động một lớp nghĩa khác cho bài thơ. Nó đâu chỉ nói cây, mà còn nói người. Nhân hoá cây là bề nổi, giấu người vào cây là bề sâu. Tự dưng, chúng ta thấy từ mạch hình ảnh thiên nhiên rải khắp bài thơ bỗng bừng dậy một lớp nghĩa khác gắn với con người và cuộc đời.
Có thể thấy rõ hơn nữa, khi nhìn trong tương quan khác.

Cảm thụ nghệ thuật, căn cứ quan trọng nhất là văn bản. Nhưng, chỉ bó hẹp trong văn bản không thôi, dễ làm nghèo nghệ thuật. Trong thực tế, thông điệp nghệ thuật của một tác phẩm không chỉ cất lên từ những gì thuộc nội bộ văn bản, mà còn vang lên cả từ tương quan giữa văn bản với những thứ bên ngoài vốn thiết thân với nó nữa. Ví như hoàn cảnh sáng tác . Tác giả cho biết thời điểm viết Sang thu là mùa thu 1977, ở nhiều lần in cũng ghi rõ như vậy. Điều này ngẫu nhiên chăng ? vô nghĩa chăng ? Không hẳn. Bấy giờ, cuộc sống vừa qua khỏi thời chiến đầy khốc liệt đang chuyển sang thời bình êm ả. Nghĩa là, đời sống cũng vừa sang thu. Đây là lúc trong lòng đời có bao trăn trở xao động. Nhìn bài thơ trong tương quan với thời điểm ấy, tự dưng chúng ta thấy các hình ảnh đó đây nhấp nháy lên những nghĩa khác : nghĩa thế sự.  Đặc biệt từ khổ hai trở đi. Nếu ở khổ đầu, thơ còn nặng về tạo vật, thì từ khổ thứ hai đã bảng lảng cái bóng đời. Hèn chi, cùng diễn tả nhịp vận động chầm chậm, nhưng Sương chùng chình qua ngõ thật khác với Sông được lúc dềnh dàng. “Chùng chình” còn dễ ưa, “dềnh dàng” đã khó ưa. “Dềnh dàng” đâu chỉ nói về nét riêng của dòng chảy đã chậm hơn khi con sông vào thu. Dường như nó còn ngầm tỏ thái độ về cái điệu sống của những đối tượng nào đó hồi mùa hạ hăng hái xông pha là thế, giờ vào thu đã tự cho phép mình được dềnh dàng, được xả hơi chăng ? Chả phải vô cớ mà thi sĩ đem chữ “được lúc” gắn với cái thói “dềnh dàng” ấy của sông. Cũng như thế, Chim bắt đầu vội vã có phải chỉ đơn thuần nói về các loài chim lúc sang thu đang gấp gáp bay đi lánh rét không thôi ? Xem ra, nó còn muốn nói tới đối tượng sống tuỳ thời, xu thời nào đó nữa ấy chứ ? Đến khổ thứ ba, cái lớp nghĩa thế sự bảng lảng này còn tỏ hơn nữa. Tôi ngờ rằng đây là khổ thơ mà anh chàng thi sĩ cũng vừa trải qua một mùa hè bỏng rát đang kín đáo nói về thế hệ mình và chính mình ? Vâng, tuy đã sang thu, nhưng lòng vẫn còn bao nhiêu nắng. Đồng thời, bao tủi sầu yếu đuối, bao cơn mưa thở than nay cũng đã vơi dần. Bước sang thu, hàng cây trẻ hồi nào giờ đã đứng tuổi. Sự từng trải đã giúp cây trưởng thành, đủ vững trãi đối đầu với mọi ba động, mọi cú giáng của cuộc đời : Sấm cũng bớt bất ngờ /Trên hàng cây đứng tuổi. Không có chữ “đứng tuổi” cứ như lạc hệ thống này, mọi suy cảm trên sẽ thành võ đoán, lớp nghĩa thời sự vốn khuất mình không thể phát sáng được. Không có nó, ý ngầm của kẻ viết vừa khó phát lộ vừa khó gói ghém.

 Một cái kết quá là khôn ngoan.

Thì ra, mùa thu đâu chỉ có chuyện tiêu sơ. Mùa thu còn là chuyện trưởng thành. Mùa thu đâu chỉ có biến thiên. Mùa thu còn tàng ẩn cả những quân bình tự tại nữa. Chẳng phải đó là những nét độc đáo mà Hữu Thỉnh đã đem đến cho một thi đề tưởng đã quá ư quen thuộc hay sao ?
Từ thơ tạo vật, Sang thu đã lẳng lặng thành thơ cuộc đời !
 

Phút giao mùa - "Sang Thu" - Hữu Thỉnh

         Bài thơ là mạch cảm xúc của tác giả trước thiên nhiên vào thu thể hiện theo trình tự các khổ thơ nối tiếp nhau nên không cần thiết phải chia đoạn. Tuy nhiên khi tìm hiểu, chúng ta nên chú ý tới cách sắp xếp các dấu hiệu của mùa thu ngày càng rõ nét của tác giả.

Sang thu là thời khắc giao mùa giữa hạ và thu. Thời khắc ấy dễ rung động tâm hồn của các thi sĩ nhưng khó có thể viết được cho thật hay, thật khác lạ. Vậy, Hữu Thỉnh đã có sự vận động ra sao trong quá trình sáng tác để thể hiện những rung động tinh tế, cảm xúc sâu xa trong tâm hồn mình?
Mở đầu bài thơ là những tín hiệu báo thu về:
Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về...
Sự chuyển biến của tạo vật với những đặc trưng của thu về đã đánh thức các giác quan tinh tế của nhà thơ. Thi sĩ cảm nhận vẻ đẹp của thiên nhiên bằng: khứu giác (mùi hương ổi), xúc giác (hơi gió se), thị giác (sương chùng chình). Hương ổi, phả, gió se là những từ ngữ, hình ảnh giàu sức gợi tả. Hương ổi phả vào gió se là cái ấm và cái lạnh giao vào nhau. Mở đầu bài thơ là sự cảm nhận về hương vị. Cái hương ổi chín thương khó đọng lại trong những cơn gió nồm nam thổi mạnh của mùa hè, giờ đây bỗng phả vào trong gió se, đem đến hương vị dịu ngọt, đằm thắm của mùa thu.
Ở đây, phả có nghĩa là tỏa ra thành luồng – đây là động từ mạnh diễn tả mùi hương ổi thơm nồng nàn lan tỏa. Từ phả có thể thay bằng từ: thổi, đưa, bay, lan, tan… Nhưng tất cả bấy nhiêu các từ ấy đều không diễn tả được cái nghĩa đột ngột bất ngờ của phút giao mùa.
Sương chùng chình qua ngõ – là một hình ảnh đẹp, lung linh, huyền ảo. ở đây, không còn là những hạt sương mà đã là một làn sương mỏng nhẹ trôi, đang chuyển động chầm chậm qua đường thôn, ngõ xóm. Chùng chình là từ láy gợi hình diễn tả hành động chậm chạp như là cố ý làm chậm lại để kéo dài thời gian. Kết hợp với từ qua, tác giả đã khéo léo sử dùng thành công phép tu từ nhân hóa, đồng thời thổi hồn vào câu thơ khiến cho màn sương thu chứa đầy tâm trạng như người đi còn vương vấn, ngập ngừng khi qua ngõ nhà ai..
Rõ là: Vẻ đẹp của thiên nhiên được cảm nhận từ những gì vô hình (hương, gió), từ những gì mờ ảo (sương), rất nhỏ hẹp và rất gần (ngõ). Nhà thơ đã đón nhận những tín hiệu giao mùa Tâm trạng có phần ngỡ ngàng, đột ngột, bất ngờ, sững sờ (bỗng nhận ra). Khi đã nhận ra những dấu hiệu đặc trưng của mùa thu với hương thu, gió thu, sương thu mà thi sĩ vẫn bâng khuâng, mơ hồ, chưa thể tin, thốt lên lời thầm thì tự hỏi (Hình như thu đã về).
          Tâm hồn thi sĩ biến chuyển nhịp nhàng với phút giao mùa của tạo vật. Từng cảnh sang thu của tạo vật cũng thấp thoáng hồn người sang thu: chùng chình, bịn rịn, lưu luyến, bâng khuâng. Chỉ những người thực sự yêu mùa thu, yêu làng quê và gắn bó với đất nước, quê hương mới có thể cảm nhận được tinh tế như vậy! Sang đến khổ thứ hai, tác giả tập trung nói rõ hơn quang cảnh đất trời sang thu.

                                      Sông được lúc dềnh dàng
                                      Chim bắt đầu vội vã
                                      Có đám mây mùa hạ
                                      Vắt nửa mình sang thu
Sự vận động của thiên nhiên trong thời khắc chuyển mùa được cụ thể hóa bằng những đổi thay của vạn vật. Sông lúc sang thu không còn cuồn cuộn chảy dữ dội như những ngày hè mưa lũ, mà êm ả dềnh dàng nhưng đang lắng lại, đang trầm xuống. Một chữ dềnh dàng mà nói lên được cái dáng vẻ khoan thai của dòng sông mùa thu, ngỡ như nó được nghỉ ngơi thoải mái khi mùa nước lũ cuồn cuộn đi qua. Đối lập với hình ảnh đó là hình ảnh đàn chim bắt đầu vội vã bay về tổ lúc hoàng hôn. Từ bắt đầu trong ý thơ được dùng rất độc đáo bắt đầu vội vã chứ không phải là đang vội vã. Phải tinh tế lắm, yêu và gần gũi với thiên nhiên lắm mới nhận ra được sự bắt đầu trong những cánh chim.
 Khổ thứ 2 là sự cảm nhận tinh tế bức tranh sang thu ở tầm xa hơn, cao hơn với những nét hữu hình, cụ thể. Cũng ở đây, ta thấy có đám mây mùa hạ còn vương lại. Và mây lưu luyến bắc chiếc cầu, vắt nửa mình sang thu. Với phép nhân hóa, tác giả đã gợi sự liên tưởng thú vị. Người ta thường nói khăn vắt trên vai, con đường mòn vắt ngang sườn núi... Hữu Thỉnh đã điểm vào bức tranh thu một hình ảnh mới mẻ, gợi cảm-hai nửa của một đám mây thuộc về hai mùa. Không phải vẻ đẹp của mùa hạ cũng chưa hẳn vẻ đẹp của mùa thu mà đó là vẻ đẹp của thời khắc giao mùa được sáng tạo từ một hồn thơ tinh tế và nhạy cảm đang say sưa ngắm nhìn cảnh vật trong thời khắc này. Hình ảnh này có tính tạo hình trong không gian nhưng lại có thêm ý nghĩa diễn tả sự vận động của thời gian. Nhà thơ mở rộng tâm hồn để cảm nhận chuyển mùa của đất trời sang thu trong tâm trạng say sưa. Đến một lúc nào đó “mây sẽ sang thu” hẳn để thành “tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt” như trong bài thơ thu của Nguyễn Khuyến.
          Theo dòng chảy của mạch cảm xúc, đến với khổ thơ thứ 3, ta thấy nhà thơ đã nói tới những chuyển biến âm thầm trong lòng cảnh vật:
                                      Vẫn còn bao nhiêu năng
                                      Đã vơi dần cơn mưa
                                      Sấm cũng bớt bất ngờ
                                      Trên hàng cây đứng tuổi.
Những thi liệu như nắng, sấm, mưa là đặc trưng của mùa hạ. Nhưng với độ giảm dần từ gay gắt chuyển hóa thành dịu êm, vơi dần, bớt dần. Đó là dấu hiệu của mùa thu. Sự phân hóa giữa hai mùa có một đường ranh giới rất mong manh. Và thế là thu hiện ra rõ nét hơn qua cảm nhận bằng kinh nghiệm, suy tư sâu lắng của nhà thơ chứ không phải bằng cảm nhận trực tiếp như ở khổ thơ trên.
Hai  câu cuối khổ 3 vừa có tính tả thực vừa chứa đựng nhiều hàm ý sâu xa: Sấm cũng bớt bất ngờ - Trên hàng cây đứng tuổi. Ở lớp nghĩa tả thực, hiện tượng sấm mùa thu đã ít đi và không còn dữ dội như khi đang mùa hạ, hàng cây đã lớn hơn và vững vàng hơn. Nhưng hình ảnh này cũng có tính chất ẩn dụ: Sấm tượng trưng cho những vang động, thay đổi của cuộc đời. Sang thu tương ứng với lứa tuổi đã quá nửa đời người. Hàng cây đứng tuổi gợi tới con người đã đứng tuổi từng trải hơn với những suy ngẫm về cuộc đời.
Đến đây ta càng thấm thía vì sao có sự chùng chình, bịn rịn lúc sang thu… Vì sao vừa dềnh dàng lại vừa vội vã. Từ bất chợt nhận ra cảnh sang thu của tạo vật mà bỗng nhận ra cảnh sang thu của đời người. Con người lúc sang thu không còn bồng bột, sôi nổi, ào ạt như thời thanh niên nữa mà sâu sắc, chín chắn hơn. Con người lưu luyến, bịn rịn với những gì đã qua nhưng cũng khẩn trương, gấp gáp thêm, vội vã thêm với thời gian, có chút gì đó bâng khuâng, bồi hồi, nhưng cũng có phần rất tự hào, kiêu hãnh. Một lần nói chuyện, ông có tâm sự rằng - Víi h×nh ¶nh cã gi¸ trÞ t¶ thùc vÒ hiÖn t­­îng thiªn nhiªn nµy, t«i muèn göi g¾m suy ngÉm cña m×nh - khi con ng­­êi ®· tõng tr¶i th× còng v÷ng vµng h¬n tr­­íc nh÷ng t¸c ®éng bÊt th­­êng cña ngo¹i c¶nh, cña cuéc ®êi Cách nói vừa có nghĩa tả thực, vừa có nghĩa ẩn dụ, ta gặp ta gặp ở rất nhiều bài như hình hình ảnh lộc trong bài Mùa xuân nhỏ nhỏ, hàng tre, mặt trời trong bài Viếng lăng Bác… Nhưng cái đặc sắc, cái hay của tác giả Hữu Thỉnh là đã lấy cái động, là sự chuyển biến của vạn vật của thiên nhiên ở bên ngoài để nói về cái tĩnh ở bên trong tâm hồn ông. Sự sang thu của tạo vật nhịp với sự sang thu của con người, vũ trụ nhỏ hòa với vũ trụ lớn, cái riêng của nhà thơ mang tầm khái quát của nhân loại. Bài thơ đã khép lại những dư vị vẫn còn để người đọc tiếp tục suy nghĩ thêm về thời khắc giao mùa sang thu, về những điều nhà thơ đã tâm sự.
Mùa thu, mùa mang lại cảm hứng thi ca bất tận nhưng ít ai lại có thể có những cảm nhận tinh tế trong thời khắc giao mùa của vạn vật như nhà thơ Hữu Thỉnh. Điều ấy lại bắt nguồn từ tình cảm sâu đậm với quê hương. Và tình yêu làng xóm, yêu miền quê sẽ trở nên tình yêu Tổ quốc. Trong cuộc sống bận rộn hôm nay, dẫu có thế nào đi chăng nữa, chúng ta cũng nên dành những khoảnh khắc để lắng sâu cảm xúc của mình, để cảm nhận vẻ đẹp của quê hương, đất nước như nhà thơ Hữu Thỉnh.
           (Cô giáo Dương Thị Hồng Thúy, Tạp chí dạy – học trong nhà trường, NXB ĐHSP, 2010)
                                                                                              Nguồn: http://Hanoi.violet.vn