Bài thơ là mạch cảm xúc của tác giả trước thiên nhiên vào thu thể hiện theo trình tự các khổ thơ nối tiếp nhau nên không cần thiết phải chia đoạn. Tuy nhiên khi tìm hiểu, chúng ta nên chú ý tới cách sắp xếp các dấu hiệu của mùa thu ngày càng rõ nét của tác giả.
Sang thu là thời khắc giao mùa giữa hạ và thu. Thời khắc ấy dễ rung động tâm hồn của các thi sĩ nhưng khó có thể viết được cho thật hay, thật khác lạ. Vậy, Hữu Thỉnh đã có sự vận động ra sao trong quá trình sáng tác để thể hiện những rung động tinh tế, cảm xúc sâu xa trong tâm hồn mình?
Mở đầu bài thơ là những tín hiệu báo thu về:
Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về...
Sự chuyển biến của tạo vật với những đặc trưng của thu về đã đánh thức các giác quan tinh tế của nhà thơ. Thi sĩ cảm nhận vẻ đẹp của thiên nhiên bằng: khứu giác (mùi hương ổi), xúc giác (hơi gió se), thị giác (sương chùng chình). Hương ổi, phả, gió se là những từ ngữ, hình ảnh giàu sức gợi tả. Hương ổi phả vào gió se là cái ấm và cái lạnh giao vào nhau. Mở đầu bài thơ là sự cảm nhận về hương vị. Cái hương ổi chín thương khó đọng lại trong những cơn gió nồm nam thổi mạnh của mùa hè, giờ đây bỗng phả vào trong gió se, đem đến hương vị dịu ngọt, đằm thắm của mùa thu.
Ở đây, phả có nghĩa là tỏa ra thành luồng – đây là động từ mạnh diễn tả mùi hương ổi thơm nồng nàn lan tỏa. Từ phả có thể thay bằng từ: thổi, đưa, bay, lan, tan… Nhưng tất cả bấy nhiêu các từ ấy đều không diễn tả được cái nghĩa đột ngột bất ngờ của phút giao mùa.
Sương chùng chình qua ngõ – là một hình ảnh đẹp, lung linh, huyền ảo. ở đây, không còn là những hạt sương mà đã là một làn sương mỏng nhẹ trôi, đang chuyển động chầm chậm qua đường thôn, ngõ xóm. Chùng chình là từ láy gợi hình diễn tả hành động chậm chạp như là cố ý làm chậm lại để kéo dài thời gian. Kết hợp với từ qua, tác giả đã khéo léo sử dùng thành công phép tu từ nhân hóa, đồng thời thổi hồn vào câu thơ khiến cho màn sương thu chứa đầy tâm trạng như người đi còn vương vấn, ngập ngừng khi qua ngõ nhà ai..
Rõ là: Vẻ đẹp của thiên nhiên được cảm nhận từ những gì vô hình (hương, gió), từ những gì mờ ảo (sương), rất nhỏ hẹp và rất gần (ngõ). Nhà thơ đã đón nhận những tín hiệu giao mùa Tâm trạng có phần ngỡ ngàng, đột ngột, bất ngờ, sững sờ (bỗng nhận ra). Khi đã nhận ra những dấu hiệu đặc trưng của mùa thu với hương thu, gió thu, sương thu mà thi sĩ vẫn bâng khuâng, mơ hồ, chưa thể tin, thốt lên lời thầm thì tự hỏi (Hình như thu đã về).
Tâm hồn thi sĩ biến chuyển nhịp nhàng với phút giao mùa của tạo vật. Từng cảnh sang thu của tạo vật cũng thấp thoáng hồn người sang thu: chùng chình, bịn rịn, lưu luyến, bâng khuâng. Chỉ những người thực sự yêu mùa thu, yêu làng quê và gắn bó với đất nước, quê hương mới có thể cảm nhận được tinh tế như vậy! Sang đến khổ thứ hai, tác giả tập trung nói rõ hơn quang cảnh đất trời sang thu.
Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu
Sự vận động của thiên nhiên trong thời khắc chuyển mùa được cụ thể hóa bằng những đổi thay của vạn vật. Sông lúc sang thu không còn cuồn cuộn chảy dữ dội như những ngày hè mưa lũ, mà êm ả dềnh dàng nhưng đang lắng lại, đang trầm xuống. Một chữ dềnh dàng mà nói lên được cái dáng vẻ khoan thai của dòng sông mùa thu, ngỡ như nó được nghỉ ngơi thoải mái khi mùa nước lũ cuồn cuộn đi qua. Đối lập với hình ảnh đó là hình ảnh đàn chim bắt đầu vội vã bay về tổ lúc hoàng hôn. Từ bắt đầu trong ý thơ được dùng rất độc đáo bắt đầu vội vã chứ không phải là đang vội vã. Phải tinh tế lắm, yêu và gần gũi với thiên nhiên lắm mới nhận ra được sự bắt đầu trong những cánh chim.
Khổ thứ 2 là sự cảm nhận tinh tế bức tranh sang thu ở tầm xa hơn, cao hơn với những nét hữu hình, cụ thể. Cũng ở đây, ta thấy có đám mây mùa hạ còn vương lại. Và mây lưu luyến bắc chiếc cầu, vắt nửa mình sang thu. Với phép nhân hóa, tác giả đã gợi sự liên tưởng thú vị. Người ta thường nói khăn vắt trên vai, con đường mòn vắt ngang sườn núi... Hữu Thỉnh đã điểm vào bức tranh thu một hình ảnh mới mẻ, gợi cảm-hai nửa của một đám mây thuộc về hai mùa. Không phải vẻ đẹp của mùa hạ cũng chưa hẳn vẻ đẹp của mùa thu mà đó là vẻ đẹp của thời khắc giao mùa được sáng tạo từ một hồn thơ tinh tế và nhạy cảm đang say sưa ngắm nhìn cảnh vật trong thời khắc này. Hình ảnh này có tính tạo hình trong không gian nhưng lại có thêm ý nghĩa diễn tả sự vận động của thời gian. Nhà thơ mở rộng tâm hồn để cảm nhận chuyển mùa của đất trời sang thu trong tâm trạng say sưa. Đến một lúc nào đó “mây sẽ sang thu” hẳn để thành “tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt” như trong bài thơ thu của Nguyễn Khuyến.
Theo dòng chảy của mạch cảm xúc, đến với khổ thơ thứ 3, ta thấy nhà thơ đã nói tới những chuyển biến âm thầm trong lòng cảnh vật:
Vẫn còn bao nhiêu năng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi.
Những thi liệu như nắng, sấm, mưa là đặc trưng của mùa hạ. Nhưng với độ giảm dần từ gay gắt chuyển hóa thành dịu êm, vơi dần, bớt dần. Đó là dấu hiệu của mùa thu. Sự phân hóa giữa hai mùa có một đường ranh giới rất mong manh. Và thế là thu hiện ra rõ nét hơn qua cảm nhận bằng kinh nghiệm, suy tư sâu lắng của nhà thơ chứ không phải bằng cảm nhận trực tiếp như ở khổ thơ trên.
Hai câu cuối khổ 3 vừa có tính tả thực vừa chứa đựng nhiều hàm ý sâu xa: Sấm cũng bớt bất ngờ - Trên hàng cây đứng tuổi. Ở lớp nghĩa tả thực, hiện tượng sấm mùa thu đã ít đi và không còn dữ dội như khi đang mùa hạ, hàng cây đã lớn hơn và vững vàng hơn. Nhưng hình ảnh này cũng có tính chất ẩn dụ: Sấm tượng trưng cho những vang động, thay đổi của cuộc đời. Sang thu tương ứng với lứa tuổi đã quá nửa đời người. Hàng cây đứng tuổi gợi tới con người đã đứng tuổi từng trải hơn với những suy ngẫm về cuộc đời.
Đến đây ta càng thấm thía vì sao có sự chùng chình, bịn rịn lúc sang thu… Vì sao vừa dềnh dàng lại vừa vội vã. Từ bất chợt nhận ra cảnh sang thu của tạo vật mà bỗng nhận ra cảnh sang thu của đời người. Con người lúc sang thu không còn bồng bột, sôi nổi, ào ạt như thời thanh niên nữa mà sâu sắc, chín chắn hơn. Con người lưu luyến, bịn rịn với những gì đã qua nhưng cũng khẩn trương, gấp gáp thêm, vội vã thêm với thời gian, có chút gì đó bâng khuâng, bồi hồi, nhưng cũng có phần rất tự hào, kiêu hãnh. Một lần nói chuyện, ông có tâm sự rằng - …Víi h×nh ¶nh cã gi¸ trÞ t¶ thùc vÒ hiÖn tîng thiªn nhiªn nµy, t«i muèn göi g¾m suy ngÉm cña m×nh - khi con ngêi ®· tõng tr¶i th× còng v÷ng vµng h¬n tríc nh÷ng t¸c ®éng bÊt thêng cña ngo¹i c¶nh, cña cuéc ®êi… Cách nói vừa có nghĩa tả thực, vừa có nghĩa ẩn dụ, ta gặp ta gặp ở rất nhiều bài như hình hình ảnh lộc trong bài Mùa xuân nhỏ nhỏ, hàng tre, mặt trời trong bài Viếng lăng Bác… Nhưng cái đặc sắc, cái hay của tác giả Hữu Thỉnh là đã lấy cái động, là sự chuyển biến của vạn vật của thiên nhiên ở bên ngoài để nói về cái tĩnh ở bên trong tâm hồn ông. Sự sang thu của tạo vật nhịp với sự sang thu của con người, vũ trụ nhỏ hòa với vũ trụ lớn, cái riêng của nhà thơ mang tầm khái quát của nhân loại. Bài thơ đã khép lại những dư vị vẫn còn để người đọc tiếp tục suy nghĩ thêm về thời khắc giao mùa sang thu, về những điều nhà thơ đã tâm sự.
Mùa thu, mùa mang lại cảm hứng thi ca bất tận nhưng ít ai lại có thể có những cảm nhận tinh tế trong thời khắc giao mùa của vạn vật như nhà thơ Hữu Thỉnh. Điều ấy lại bắt nguồn từ tình cảm sâu đậm với quê hương. Và tình yêu làng xóm, yêu miền quê sẽ trở nên tình yêu Tổ quốc. Trong cuộc sống bận rộn hôm nay, dẫu có thế nào đi chăng nữa, chúng ta cũng nên dành những khoảnh khắc để lắng sâu cảm xúc của mình, để cảm nhận vẻ đẹp của quê hương, đất nước như nhà thơ Hữu Thỉnh.
(Cô giáo Dương Thị Hồng Thúy, Tạp chí dạy – học trong nhà trường, NXB ĐHSP, 2010)
Nguồn: http://Hanoi.violet.vn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét