Địa danh
hành chính “Tỉnh Nam Định”được chính thức đặt tên vào năm Minh Mạng thứ
13 (1832). Tìm hiểu địa danh Nam Định trước hết ta lần theo những trang
thư tịch cổ. Theo sử sách đất Nam Định thuộc phủ Thiên Trường xưa. Phủ
Thiên Trường được lập ra vào thời Trần. Trước thời Trần, vào thời Lý thì
Nam Định thuộc đất Hải Thanh. Nhà Trần đổi Hải Thanh thành Thiên Thanh.
Năm Thiên ứng Chính Bình 38 (1239) vua Trần Thái Tông sai Nhập nội Thái
phó Phùng Tá Chu về xây hành cung Tức Mặc. Đến năm Thiên Long thứ 5
(1262) Nhâm Tuất, tháng hai, Thượng hoàng Trần Thái Tông lại về thăm
quê. Sau chuyến đi này nhà Trần đổi hương Tức Mặc làm phủ Thiên Trường.
Tại cố hương Tức Mặc xây cung Trùng Quang giành cho Thượng hoàng, cung
Trùng Hoa cho vua. Bao quanh cung điện của Hoàng thượng và nhà vua có
các cung Đệ Nhất, Đệ Nhị, Đệ Tam, Đệ Tứ là để giành cho gia đình các
hoàng thân, quốc thích.
Nhà Trần suy vong,
quân Minh Xâm lược đổi tên các phủ, huyện. Phủ Thiên Trường bị đổi
thành phủ Phụng Hoá. Cuộc kháng chiến của Lê Lợi thắng lợi, nhà vua cho
lấy lại tên cũ của các phủ, huyện. Đến niên hiệu Quang Thuận vua Lê
Thánh Tông đổi Thiên Trường phủ thành Thiên Trường thừa tuyên. Sang niên
hiệu Hồng Đức chia các khu vực trong nước thành xứ thì đất Thiên Trường
thuộc xứ Sơn Nam, sau lại đổi thành lộ Sơn Nam. Đời vua Lê Hiến Tông,
năm Cảnh Hưng 2 (1741) lại chia các xứ ra cho nhỏ đi để quản lý. Sơn Nam
thành xứ Sơn Nam Thượng và Sơn Nam Hạ. Đến nhà Tây Sơn đổi xứ Sơn Nam
Hạ thành trấn Sơn Nam Hạ. Nhà Nguyễn dựng nghiệp vẫn giữ các đơn vị hành
chính như thời Tây Sơn. Phủ Thiên Trường thuộc trấn Sơn Nam Hạ. Trấn
Sơn Nam Hạ có 5 phủ gồm 19 huyện, 150 tổng, 1.189 xã, thôn, phường, ấp,
trại. Phủ Thiên Trường có 4 huyện, 34 tổng, 313 xã, thôn, phường, trại.
Năm Minh Mạng thứ 3
cải cách hành chính đặt ra trấn Nam Định. Trấn Nam Định vẫn gồm 5 phủ.
Đến năm thứ 13 (1832) mới đặt tên tỉnh Nam Định. Tỉnh Nam Định lúc bấy
giờ gồm đất Nam Định ,Thái Bình và một phần đất tỉnh Hưng Yên ngày nay.
Năm 1890 chia Nam Định thành hai tỉnh Nam Định và tỉnh Thái Bình. Tỉnh
Nam Định gồm hai phủ là phủ Thiên Trường và phủ Nghĩa Hưng. Phủ Thiên
Trường có 4 huyện là: Mỹ Lộc, Thượng Nguyên, Tây Chân (Nam Chân) và Giao
Thuỷ. Cuối thế kỉ 19 thành lập thêm huyện Hải Hậu (1888). Phủ Nghĩa
Hưng gồm các huyện: Thiên Bản, Vọng Doanh, Ý Yên và Đại An. Đến thời Tự
Đức đã có những thay đổi như điều chỉnh địa giới một số huyện, tổng, xã
cho phù hợp để quản lý. Đổi tên phủ Thiên Trường thành phủ Xuân Trường,
huyện Thiên Bản thành huyện Vụ Bản. Còn những tên tổng, xã làng nào phạm
huý đều phải đổi như Cao Hương, Hương Nhi, Hương Bông đều đổi “Hương”
thành “ Phương”v. v.
Phủ Thiên Trường
nằm phía đông dọc theo dòng sông Hồng từ huyện Mỹ Lộc, Thượng Nguyên
xuống Tây Chân, Giao Thuỷ. Phủ Nghĩa Hưng dọc theo dòng sông Đáy từ
huyện Ý Yên, Vọng Doanh, Thiên Bản xuống Đaị An. Do địa hình kéo dài từ
bẵc xuống nam nên các huyện phía trên (bắc) là đất cổ còn các huyện phía
dưới (nam) là đất bồi được khai khẩn muộn hơn. Các huyện Mỹ Lộc, Thượng
Nguyên (phủ Thiên Trường) và Thiên Bản (Vụ Bản), Ý Yên, Vọng Doanh (
phủ Nghĩa Hưng) có nhiều địa danh cổ. Những địa danh thuần Việt cổ chỉ
xuất hiện ỏ các huyện phía bắc tỉnh.
Từ xa xưa làng
được gọi là “kẻ” như: kẻ Hầu là làng Hào Kiệt, kẻ Báng là làng Kim Bảng,
Kẻ Dầy là làng An Thái ... Vùng đất từ bờ sông Đào lùi xuống phía nam
từ “kẻ” biến âm thành “cổ”: “kẻ Si” là làng Cổ Sư , rồi Cổ Chử, Cổ Nông,
Cổ Da…trong dân gian có câu rằng:
Thiên Bản lục An, Nam Chân thất Cổ
Nam Chân thất Cổ, Giao Thuỷ lục Hoành
Nghĩa là huyện
Thiên Bản có 6 làng An đó là: 1.làng An Cự, 2.làng An Duyên ( tổng An
Cự), 3.làng An Lạc (tổng Đăng Côi), 4. làng An Nhân (tổng Trình Xuyên),
5. làng An Thái (tổng Đồng Đội), 6.làng An Thứ (tổng Hiển Khánh). Còn
Nam Chân thất cổ là huyện Nam Chân có 6 làng Cổ và tổng Cổ Da là bẩy:
1.Cổ Cao, 2.Cổ Da, 3.Cổ Chử, 4.Cổ Lễ, 5.Cổ Lung, 6. Cổ Nông, 7.tổng Cổ
Da. Giao Thuỷ lục Hoành là tổng Hoành Nha huyện Giao Thuỷ có 6 làng khởi
đầu chữ Hoành: 1.Hoành Đông, 2.Hoành Lộ, 3.Hoành Nha, 4.Hoành Nhị, 5.Hoành Tam, 6.Hoành Tứ.
Trước Cách mạng làng là một tụ điểm dân cư. Nhưng không phải làng nào
cũng là một đơn vị hành chính cấp cơ sở vì từ khi lập làng đến triều Lê
sang triều Nguyễn những làng cổ ngày càng phát triển, số đinh nhiều lên.
Cư dân đào ao,vượt thổ, san lấp gò đống, hồ đầm lập thêm ra ấp, trại
mới. Khi đủ điều kiện, hay có thời cơ là xin lập thành “xã”. Xã là một
đơn vị hành chính. Người đứng đầu hành chính “xã” là “Xã trưởng” ( thời
Lý gọi là Câu Đương có thời gọi là Đình trưởng). Năm 1828 triều Nguyễn
đổi gọi “Xã trưởng” thành “ Lý trưởng”. Lý trưởng được nhà nước công
nhận là người đứng đầu hành chính cấp xã, được trao mộc triện để thực
thi công việc hành chính do mình quản lý. Giúp việc lý trưởng có phó lý,
trương tuần, địa bạ và thủ quỹ. Trên thực tế một làng có một lý trưởng,
một hoặc 2 phó lý. Nhưng nếu một làng cổ có nhiều thôn, hoặc nhiều giáp
mà dân cư ngày càng phát triển thì có thể mỗi thôn ấy thành một xã. Ví
như làng Trà Lũ cuối thời Lê làng này là một xã có 3 thôn nhưng sang
triều Nguyễn đã tách thành 4 là: Trà Bắc, Trà Trung , Trà Đông, Trà
Đoài. Từ đó hình thành 4 xã có 4 lý trưởng ( Trà Lũ xã chí - Lê Văn
Nhưng). Bộ máy hành chính làng xã luôn gắn liền với cơ sở văn hóa tâm
linh của làng xã là đền, miếu, đình, chùa của làng. Trong một làng người
quán xuyến công việc nội bộ của làng, nhất là trong hoạt động tâm linh,
đình đám, hội hè là do “Tiên chỉ”. Tiên chỉ định đoạt “việc làng”. Tính
độc lập tương đối cùng như bản sắc và truyền thông văn hoá của mỗi làng
được thể hiện qua “Lệ làng”. Những bản Hương ước, Khoán ước, Thúc ước,
văn tế và cả đồ tế tự, vật tế thần cùng các hình thức lễ nghi tạo ra nét
tiêu biểu của mỗi làng (mỗi địa danh). Mỗi vùng, miền thường có những
địa danh rất ấn tượng. Có nơi do đặc trưng địa lý như bến đò là địa chỉ
giao thông: bến Ninh Cường, Cựa Gà, bến Chanh. Có nơi là do có lễ hội
như: Hội Phủ Dầy, hội Chùa Keo, hội chùa Cổ Lễ, hội đền Din… Có nơi là
làng nghề như: La Xuyên (đồ gỗ), Vân Chàng, Bảo Ngũ( nghề rèn), Vị Khê
(trồng hoa). Có địa danh là nơi buôn bán như Chợ Gạo (
làng Cảo Linh), chợ Dần, chợ Bể, chợ Mụa ...Có địa danh do tập quán
phong tục tạo vinh danh như: làng Hành Thiện, làng Quần Anh… Vì thế mỗi
khi nhắc đến tên làng (địa danh) là người ta hình dung được những nét
tiêu biểu rất đặc trưng về văn hoá, phong tục tập quán, phong cảnh hay
địa hình của nơi ấy.
Trong quá trình phát triển của mỗi quốc gia ta thấy có những địa danh tồn tại hàng ngàn năm, nhưng hàng ngày, hàng giờ ở một vùng đất (đất Nam Định cũng như các miền quê khác) luôn xuất hiện địa danh mới, ví như đất thành phố Nam Định hiện nay vào thời thuộc Hán là làng “ Dương Xá”. Nhưng địa phận Dương Xá thế nào thì nay khó mà xác định được. Vì Dương Xá chỉ thấy xuất hiện ở vài thư tịch cổ ( mà không thấy trong chính sử). Trong một bài thơ “ Miếu thành hoàng làng Năng Lự” Tiến sĩ Trần Xuân Vinh đỗ khoa Kỷ Mùi năm Cảnh Thống 2 ( 1499) cho biết cổ xưa có ông Trần Oánh từ Kiện Khê ( Hà Nam), sau đó có thêm hai người họ Lê đến Dương Xã dựng nhà rồi lập ra ấp Năng Lự. Sau này Năng Lự đổi thành làng Năng Tĩnh. Còn tài liệu về Làng Tức Mặc thời cổ xưa cho biết đây là làng Khang Kiện. Phía nam làng Khang Kiện là Dương Xá. Đất thành Nam lại chính là từ kho lương ở làng Vị Hoàng vào thời Lê. Sang triều Nguyễn mới đắp đất rồi xây thành Nam Định. Nên việc xác định địa danh không phải là dễ. Việc này đòi hỏi phải cẩn trọng; Bởi mỗi địa danh là những trang sử sinh động do chính con người sống trên mảnh đất đó tạo ra, đó là sự kết tụ tinh hoa văn hoá ( gồm những điều tốt, chưa tốt và cả những điều đã bị lãng quên hoặc phế bỏ). Nghiên cứu địa danh chính là để bảo tồn di sản văn hóa của quê hương đất nước.Tìm hiểu địa danh đây là việc làm đã thành truyền thống của nhiều thế hệ, đã thành ý thức hệ trong mỗi con người.
(Theo Tập san Sở KHCN tỉnh Nam Định quý I năm 2009)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét